Cá ngựa - thuốc ôn thận tráng dương
Cá ngựa có nhiều loài với kích thước và màu sắc khác nhau; thường là vàng, trắng, vàng nâu có khi pha đỏ, xanh đen. Cá ngựa được dùng làm thuốc trong y học cổ truyền từ lâu đời.
Một số loài cá ngựa thường thấy: Cá ngựa vàng (đại hải mã - Hippocampus kuda Bleeker.); cá ngựa trắng (bạch hải mã - Hippocampus kelloggi Jordan. et Snyder.); cá ngựa chấm (tam ban hải mã - Hippocampus trimaculatus Leach.); cá ngựa gai (thích hải mã - Hippocampus histrix Kaup.); cá ngựa Nhật (Hippocampus japonicus Kaup.); cá ngựa Úc (Hippocampus hylloperexeques). Trong đó, cá ngựa vàng và cá ngựa trắng được ưa chuộng hơn cả. Lúc cặp đôi trong mùa sinh đẻ, cá thường thay đổi màu sắc rất ngoạn mục.
Bộ phận dùng làm thuốc là cả con cá ngựa. Cá bắt về, mổ bụng, bỏ ruột, uốn cong đuôi cho tròn lại, phơi hay sấy khô; có khi ngâm trong rượu hồi hay quế trước khi phơi khô. Khi bán, người ta thường buộc hai con to nhỏ với nhau (đực, cái).
Cá ngựa có nhiều protit, có các hoạt chất dạng estrogen, androgen. Theo Đông y, cá ngựa vị ngọt, mặn, tính ấm; vào can thận. Tác dụng ôn thận tráng dương, điều khí hoạt huyết, tán kết tiêu viêm. Dùng tốt cho nam giới liệt dương, bất lực về sinh lý, di tinh di niệu, trưng hà tích tụ, chấn thương bầm dập, thần kinh suy nhược, khó có con. Liều dùng: 4 - 12g/ ngày.